Cuộc đời Phạm_Công_Tắc

Thân thế

Phạm Công Tắc sinh ngày 21 tháng 6 năm 1890 (tức mùng 5 tháng 5 năm Canh Dần) tại làng Bình Lập, quận Châu Thành, tỉnh Tân An (nay thuộc thành phố Tân An, tỉnh Long An). Ông là người con thứ 7 trong gia đình 8 người con.

Cha của ông là ông Phạm Công Thiện, là một công chức chính quyền thuộc địa, quê quán ở làng An Hòa, quận Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Mẹ ông là bà La Thị Đường, cũng là người làng An Hòa.

Năm 1896, ông bắt đầu đi học tiểu học tại Tân An, nơi cha ông công tác, nhưng sau đó cha ông nghỉ việc, đưa cả gia đình về nguyên quán. Ông được rửa tội tại nhà thờ Tây Ninh vào năm 1900.[1] Hai năm sau, cha ông qua đời.[2] Dù gia cảnh rất khó khăn, năm 1906, Phạm Công Tắc vẫn tiếp tục theo học ở trường Chasseloup-Laubat tại Sài Gòn.[3] Năm 1907, ông đậu bằng Thành chung.[2]

Hoạt động xã hội

Thời gian học trung học, Phạm Công Tắc tham gia tích cực trong phong trào Đông Du tại Sài Gòn do hai ông Gilbert Trần Chánh ChiếuDương Khắc Ninh lãnh đạo. Năm 1908, ông được Hội Minh Tân, một tổ chức con của phong trào Đông Du, chuẩn bị đưa đi nước ngoài; nhưng sau đó, bị bại lộ không đi được. Do bị chính quyền chú ý theo dõi, ông phải bỏ học.

Do có trình độ Thành chung, Phạm Công Tắc được nhận vào một hãng buôn làm công. Thời gian này, ông tham gia cộng tác với các báo như Công luận, La Cloche Fêlée (Chuông rè) của Nguyễn An Ninh, La Voix Libre (Tiếng nói tự do), Lục Tỉnh Tân Văn của ông Pierre Jeantet, ông Gilbert Chiếu làm chủ bút... với bút danh Ái Dân. Đây là những tờ báo ít nhiều cổ vũ tinh thần dân tộc nên trở thành những cái gai trong mắt chính quyền thực dân. Sau khi ông Gilbert Chiếu bị bắt, tờ báo đình bản, ông lại về quê.

Đến năm 1910, gia đình lâm vào cảnh túng thiếu, nên Phạm Công Tắc phải xin vào làm tại Sở Thương Chánh Sài Gòn. Sau khi có việc làm, ông lập gia đình với bà Nguyễn Thị Nhiều. Ông bà có với nhau 3 người con (1 trai, 2 gái) nhưng người con trai mất sớm khi mới 4 tuổi. Tuy là công chức, nhưng gia cảnh của ông vẫn rất chật vật vì nếp sống thanh bần.

Vì là công chức, Phạm Công Tắc được chuyển công tác đi nhiều nơi, đầu tiên là Cái Nhum (Vĩnh Long), Quy Nhơn rồi lại chuyển về Sài Gòn, cuối cùng là chuyển sang Nam Vang (Phnom Penh). Suốt thời gian làm công chức cho chính quyền thuộc địa Pháp, ông chỉ giữ một chức vụ cấp thấp là thư ký sở Thương Chánh.

Đạo nghiệp sơ khai

Sau khi mẹ qua đời, Phạm Công Tắc bắt đầu quan tâm đến cuộc sống tâm linh nhiều hơn. Đầu thập niên 1920, phong trào Thông linh học (Spiritisme) bắt đầu phổ biến tại Nam Kỳ.[4] Vào khoảng tháng 7 năm 1925, ông cùng với các bạn hữu công chức gốc Tây Ninh là Cao Quỳnh CưCao Hoài Sang cùng thử nghiệm lập bàn tại nhà ông Cao Hoài Sang ở đường Arras.[5] Do các thành viên ban đầu mang họ Cao và họ Phạm, nên còn được gọi là nhóm Cao - Phạm. Nhóm còn có một thành viên nữ là bà Nguyễn Thị Hiếu, vợ ông Cao Quỳnh Cư.

Nhóm được cho là tiếp xúc với Thượng đế qua danh hiệu AĂÂ vào khoảng tháng 7 năm 1925.[6] Đến khoảng trung tuần tháng 9 năm 1925, nhóm chuyển sang dùng đại ngọc cơ để cầu cơ. Theo các tài liệu đạo Cao Đài, thì giữa tháng 12 năm đó, nhóm được Thượng đế xưng danh Cao Đài lần đầu tiên.

Nhóm này về sau phát triển thêm nhiều người, quan trọng nhất là việc thu nhận thêm Lê Văn Trung, cựu Nghị viên Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ, người về sau giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển đạo Cao Đài.

Xây dựng Hội Thánh

Với sự liên hệ của ông Vương Quang Kỳ, giữa các nhóm hầu cơ bắt đầu có sự liên hệ qua lại. Ngày 21 tháng 2 năm 1926 (tức ngày 9 tháng 1 năm Bính Dần, trong một buổi cầu cơ tại nhà ông Kỳ, có mời các nhân vật có danh tiếng của các nhóm cầu cơ cùng đến dự, một bài thơ được lưu truyền là cơ giáng của Thượng đế, trong đó có tên của 13 người, về sau được tín đồ Cao Đài xưng tụng là những tín đồ đầu tiên của đạo, với ông Ngô Văn Chiêu được tôn xưng Anh Cả. Tên ông được xướng ở vị trí thứ 11.

Trong một buổi hầu cơ ngày 17 tháng 4[7] năm 1926 (tức 6 tháng 3 năm Bính Dần, Phạm Công Tắc cùng với các ông Lê Văn Trung, Cao Quỳnh Cư và bà Nguyễn Thị Hiếu, đã nhận cơ giáng chuẩn bị đạo phục Giáo tông để phong cho ông Ngô Văn Chiêu.[8] Tuy nhiên, ông Chiêu đã từ chối và trả lại tiền may bộ đạo phục này.[9] từ đó không tham gia vào hoạt động phổ độ nào nữa, mà chỉ tuyển chọn một số ít tín đồ riêng để tu tập theo lối Nội giáo tâm truyền.[10] tách ra thành một hệ phái tu riêng, hình thành hệ phái Cao Đài Chiếu Minh.

Việc hình thành Hội Thánh không vì thế mà dừng lại. Từ ngày 22 đến ngày 26 tháng 4 năm 1926, trong các buổi cầu cơ, các tín đồ chủ chốt đã được cơ giáng phong chức phẩm cao cấp để hình thành Hội Thánh, gồm:

  • Ông Lê Văn Trung phong Đầu sư Thượng Trung Nhựt.
  • Ông Lê Văn Lịch phong Đầu sư Ngọc Lịch Nguyệt.
  • Ông Phạm Công Tắc phong Hộ giá Tiên đồng Tá cơ Đạo sĩ
  • Ông Cao Quỳnh Cư phong Tiên Hạc Tá cơ Đạo sĩ[11]
  • Các ông Trương Hữu Đức và Nguyễn Trung Hậu phong Tiên Hạc Phò cơ Đạo sĩ
  • Ông Vương Quang Kỳ phong Tiên Sắc Lang Quân nhậm Thuyết Đạo Giáo sư
  • Ông Đoàn Văn Bản phong Tiên Đạo Công Thần nhậm Thuyết Đạo Giáo sư.

Như vậy, trong tổ chức Hội Thánh nguyên thủy đã hình thành ngôi vị Giáo tông, Đầu sư, Đạo sĩ Tá cơ, Phò cơ và Giáo sư. Do ông Chiêu từ chối ngôi Giáo tông, vai trò lãnh đạo do 2 vị Đầu sư Lê Văn Trung và Lê Văn Lịch đảm trách.

Bấy giờ, các chức phẩm Hộ pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh bấy giờ chưa được phong chính thức, mà chỉ thông qua các vị trí đứng hành lễ, về sau mới hình thành các chức phẩm cao cấp trong Hiệp Thiên Đài.[2]

"Mấy đứa con là: Nghĩa, Hậu, Đức, Tràng, Cư, Tắc, Sang, đều mặc đồ trắng, hầu theo thứ lớp như vầy: Nghĩa, Đức đứng ngoài, là tại Bàn Thờ Hộ pháp, rồi Hậu, Tràng đứng cặp kế đó, kế ba con sau rốt hết: Tắc giữa, Cư mặt, Sang trái."

— Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. I. 25

Từ những chức sắc đầu tiên này, Hội Thánh dần phát triển thành 6 đàn cầu cơ ở Nam Kỳ, thu nạp thêm tín đồ. Ngày 29 tháng 9 năm 1926 (tức 23 tháng 8 năm Bính Dần), ông cùng 246 tín đồ lập tờ tịch đạo (tức danh sách tín đồ). Trong tờ Khai đạo gửi Thống đốc Nam Kỳ Le Pol ngày 7 tháng 10 năm 1926 (tức 1 tháng 9), tên ông đứng thứ 18 trong số 28 đạo hữu cùng ký tên trong tờ khai. Sau đó các tín đồ chia làm 3 nhóm đi phổ độ ở Nam Kỳ Lục tỉnh.

Năm 1927, chính quyền thực dân Pháp chuyển công tác ông lên Nam Vang (Phnom Penh). Tại đây, với tư cách là một Tá cơ Đại sĩ, ông đã chiêu nạp một số tín đồ và phong chức theo cơ bút, từ đó hình thành Cơ quan Truyền giáo Hải ngoại[12] để truyền đạo ra nước ngoài. Trong số những chức sắc đầu tiên của Hội Thánh Ngoại Giáo, một số trở thành những nhân vật có ảnh hưởng sau này như Tiếp đạo Cao Đức Trọng, Giáo sư Thượng Chữ Thanh (Đặng Trung Chữ) cố vấn Ủy ban Kháng chiến tỉnh Tây Ninh, Phối sư Thượng Vinh Thanh (Trần Quang Vinh) Tổng tư lệnh quân đội Cao Đài... Do hoạt động tích cực của ông và Hội Thánh Ngoại Giáo có ảnh hưởng đến một số nhân sĩ trí thức và quan chức Pháp, tháng 2 năm 1932, Quốc hội Pháp đồng ý cho các tín đồ Cao Đài được hưởng chế độ tự do tín ngưỡng trên toàn cõi Đông Dương.[13]

Chưởng quản Nhị hữu hình đài

Sau khi Quyền Giáo tông Thượng Trung Nhựt mất năm 1934, nhiều chức sắc cao cấp của Tòa Thánh ly khai và thành lập những hệ phái độc lập. Nhằm ngăn chặn sự tan rã của Hội Thánh, vào ngày lễ Đại tường (xả tang) Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt là ngày 8 tháng 11 năm 1935, một Đại hội đồng gồm tất cả nghị viên và phái viên Hội Nhơn Sanh và Hội Thánh nhóm tại Tòa Thánh Tây Ninh vào ba ngày 8, 9, 10 tháng 11 năm 1935, có hàng vạn tín đồ các nơi về tham dự. Toàn Đại hội đồng đã đồng thanh tín nhiệm Hộ pháp Phạm Công Tắc cầm quyền thống nhất Chánh Trị Đạo cho đến ngày có Đầu Sư chánh vị để điều hành nền Đạo.[14] Trên thực tế, ông trở thành vị lãnh đạo tối cao, cầm quyền thống nhất Chánh Trị Đạo của Tòa Thánh Tây Ninh cho đến ngày quy liễu.

Bửu tháp Đức Hộ pháp (nơi đặt kim thân của Hộ pháp Phạm Công Tắc sau khi được đưa về từ Campuchia năm 2006) trong khuôn viên Tòa Thánh Tây Ninh

Năm 1940, quân Nhật thâm nhập Đông Dương. Để hỗ trợ Chính sách Đại Đông Á, người Nhật đã bí mật khuyến khích và hỗ trợ cho nhiều tổ chức chống Pháp không Cộng sản, với mục đích xây dựng những lực lượng hậu thuẫn về sau này. Trước tình hình phong trào chống thực dân Pháp trong nước Việt Nam nổi lên khắp nơi từ năm 1941, chính quyền Pháp đã đàn áp thẳng tay bằng cách giam giữ tất cả những ai bị tình nghi là chống lại họ. Lúc bấy giờ Cao Đài là một tôn giáo có tổ chức chặt chẽ và phát triển rất nhanh, nên người Pháp rất lấy làm nghi ngại. Sau nhiều lần đe dọa, Pháp vào tận Nội ô Toà Thánh Tây Ninh bắt Phạm Công Tắc và 5 chức sắc khác đày sang đảo Madagascar. Họ cũng thực hiện việc chiếm đóng hầu như tất cả các cơ sở của đạo Cao Đài ở Đông Dương.

Mãi sau khi tái chiếm Đông Dương, trước làn sóng phản đối chống Pháp đòi độc lập cho Việt Nam cũng như việc lưu đày Hộ pháp Phạm Công Tắc của tín đồ Cao Đài nên năm 1946, người Pháp trả tự do cho Phạm Công Tắc, đổi lại việc các tín đồ Cao Đài sẽ không tấn công người Pháp. Với quan điểm chống vô thần của Việt Minh, trên danh nghĩa ông đã chấp thuận điều kiện này và từ đó trở lại cầm quyền tôn giáo Cao Đài, thực hiện kiện toàn tất cả các cơ sở tôn giáo này. Nhưng thực tế dưới sự lãnh đạo của ông, tín đồ Cao Đài vẫn tiếp tục chống Pháp lẫn Việt Minh.

Xung đột và lưu vong

Sau khi về nước nắm quyền chấp chính, quyền tự trị của Tòa Thánh Tây Ninh là một trở ngại trong tiến trình Thủ tướng Ngô Đình Diệm thâu tóm quyền lực. Tháng Ba năm 1955, lực lượng Cao Đài liên kết với Phật giáo Hòa Hảo, lực lượng Bình Xuyên lập ra Mặt trận Thống nhứt Toàn lực Quốc gia ra tối hậu thư đòi cải tổ chính phủ và chấm dứt sự đàn áp. Phạm Công Tắc là chủ tịch Mặt trận. Chính phủ Quốc gia không nhượng bộ; Lê Văn Viễn ra lệnh tấn công Quân đội Quốc gia nhưng bị đánh bại và truy nã trong khi các thành phần khác trong Mặt trận quay súng quy thuận.[15] Ngày 5 tháng 10 năm 1955, tướng Nguyễn Thành Phương đem quân bản bộ về bao vây Hộ pháp Đường tại Tòa Thánh Tây Ninh.

Chiến dịch thanh trừng này có mục đích là loại bỏ những ai không đồng tình với chế độ lúc bấy giờ. Dưới sự đàn áp của chính phủ Diệm, ngày 16 tháng 2 năm 1956, lúc 3 giờ sáng, ông rời Tòa Thánh theo quốc lộ 22 sang Nam Vang (Campuchia) qua ngã Gò Dầu.

Phạm Công Tắc tiếp tục hành đạo và phát triển đạo ở ngoại quốc. Tại Nam Vang, ngày 26 tháng 3, ông công bố "Cương lĩnh Hòa Bình Chung Sống", với tiêu chí là: Do Dân; Phục Vụ Dân; Lập Quyền Dân. Ông kêu gọi hai miền Nam và Bắc thi đua nhân nghĩa không để cảnh nồi da xáo thịt diễn tiến... Tuyên bố Hòa bình chung sống của Hộ pháp Phạm Công Tắc là cơ sở của Ban Củng cố hòa bình chung sống (3/1963). Đây là một tổ chức yêu nước và tiến bộ của chức sắc và tín đồ Tòa Thánh Tây Ninh. Ban thật sự đã trở thành tiếng nói chung, khắc phục kịp thời những xung đột, phức tạp về tư tưởng, là trung tâm để hội tụ đông đảo các tầng lớp chức sắc và tín đồ toàn đạo đấu tranh vì hoà bình. Với Đường lối "Hòa bình chung sống" của đạo Cao Đài, đồng bào Cao Đài đã chung sức, chung lòng, luôn đồng hành cùng dân tộc đấu tranh vì lý tưởng "Nước Vinh, Đạo Sáng". Đó cũng là tiền đề vững chắc cho đạo Cao Đài tiếp nối đường hướng "Nước Vinh, Đạo Sáng" trong những thời kỳ tiếp theo.

Cũng trong thời gian này Phạm Công Tắc gởi thư cho Hồ Chí Minh, Chủ tịch Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kêu gọi hòa bình với miền Nam nhằm tiến tới thành lập một chính phủ liên hiệp và thống nhất tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gởi điện văn hoan nghênh lời đề nghị của ông. Và Tôn Đức Thắng, lúc bấy giờ là Chủ tịch trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã gởi thư sang Campuchia mời ông ra thăm Hà Nội và tín đồ Cao Đài miền Bắc.

Vì tuổi già sức yếu, ông làm một văn thư gởi Hoàng Thân Sihanouk, thỉnh cầu cho ông tạm gởi thi hài nơi đất Campuchia dưới sự bảo vệ của Hoàng gia Campuchia, đồng thời, ông gọi các Chức sắc và bổn đạo tới bên giường bịnh để di chúc:

"Bần đạo qui Thiên, tạm gởi thể xác nơi đất Cao Miên một thời gian. Ngày nào nước nhà độc lập thống nhất hoặc thực hiện đúng theo đường lối Hòa bình Trung lập, sẽ di liên đài về Tòa Thánh Tây Ninh."[2]

Ông qua đời vào ngày mùng 10 tháng 4 năm Kỷ Hợi (dl ngày 17 tháng 5 năm 1959) hưởng thọ 70 tuổi tại Nam Vang.

Năm 2006, Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây Ninh đã đưa hài cốt của ông về Tòa Thánh Tây Ninh theo ý nguyện của toàn Đạo và Thánh ý trước khi mất của ông.

Hằng năm ngày quy Thiên của ông (ngày 10 tháng 4 năm Kỷ Hợi) được cử hành long trọng và thành kính... nhiều người Việt ở nước ngoài cũng cử hành lễ nầy nơi họ sinh sống và coi đây như là một trong những cột mốc kết hợp để bay về Việt Nam...